Nghị định 207/2025 mới đây đã được ban hành, đánh dấu một sự thay đổi quan trọng trong chính sách hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam. Theo đó, phụ nữ độc thân giờ đây có quyền chủ động thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bao gồm cả thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), mà không cần phải có quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật. Đây là một bước tiến đáng kể so với Nghị định số 10/2015, khi chỉ những cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa mới được áp dụng kỹ thuật này.
TS.BS Bạch Huy Anh, Phó Giám đốc Trung tâm hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bưu điện, cho biết Nghị định 207 đã mở rộng quyền cho nhiều chị em độc thân có nguyện vọng hỗ trợ sinh sản để làm mẹ. Nguyên tắc vô danh giữa người hiến và người nhận tinh trùng tiếp tục được duy trì để đảm bảo các quy định về đạo đức và pháp luật. Điều này nhằm đảm bảo rằng quá trình hỗ trợ sinh sản được thực hiện một cách minh bạch và có trách nhiệm.
Cũng theo TS.BS Bạch Huy Anh, tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới quy định về ngân hàng tinh trùng yêu cầu những tinh trùng không định danh, không được cho ngẫu nhiên mà phải hoán đổi theo quy định của pháp luật. Tinh trùng phải đạt tiêu chí: Người cho khỏe mạnh, không dị tật, các bệnh di truyền, ở lứa tuổi nhất định, ngoài không định danh phải có trình độ học vấn rất tốt thì mới được đưa vào mẫu ở ngân hàng tinh trùng. Điều này đảm bảo rằng chất lượng tinh trùng được sử dụng trong hỗ trợ sinh sản là tốt nhất.
BSCK I Nguyễn Thị Nhã, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bưu điện, chia sẻ rằng người phụ nữ nào cũng có quyền được sinh con, trong đó có phụ nữ độc thân. Hiện nay, nhiều phương pháp hỗ trợ sinh sản hiện đại như bơm tinh trùng vào buồng trứng (IUI), thụ tinh trong ống nghiệm (IVF)… giúp phụ nữ đơn thân có nguyện vọng đều có thể hiện thực hóa ước mơ làm mẹ của mình. Điều này thể hiện sự tiến bộ trong việc hỗ trợ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ.
Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bưu điện, đã ghi nhận số lượng phụ nữ chủ động đi trữ trứng tăng nhanh, lên tới vài trăm ca/năm, hầu hết đều là phụ nữ độc thân, độ tuổi trung bình phổ biến là 33-40 tuổi. Điều này cho thấy ngày càng nhiều phụ nữ độc thân quan tâm đến việc bảo vệ và kế hoạch hóa tương lai sinh sản của mình.
Theo Bộ Y tế, kỹ thuật IVF được thực hiện tại Việt Nam từ năm 1998, đến nay đã có hơn 150.000 trẻ ra đời từ kỹ thuật này. Hiện toàn quốc có hơn 50 cơ sở hỗ trợ sinh sản, làm chủ nhiều kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, có những trung tâm có tỷ lệ điều trị IVF thành công lên đến 70%, tương đương các trung tâm hỗ trợ sinh sản lớn trên thế giới, với chi phí thực hiện chỉ bằng 1/3 đến 1/5 so với nhiều nước trong khu vực. Điều này chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam và khả năng tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ này.